
Thuở xưa, đời nhà
Lương, vua Võ Ðế, có quen với một vị Hòa thượng, hiệu là Chí Công, hằng ngày
trò chuyện với nhau rất thân thiết.
Hoàng hậu tên là Hy Thị, thấy vậy, bèn can
gián vua đừng chơi với người ngu tăng ấy, nhưng vua Võ Ðế chẳng hề nghe, cứ
giao du như thường. Hoàng hậu giận lắm, toan lập mưu hại ngài Chí Công, bèn lén
dùng thịt chó làm nhân bánh, rồi sai người đem bánh ấy đến chùa mà trai tăng.
Ai ngờ Hòa thượng Chí Công đã biết trước, nên
dự sắm áo tràng rộng tay, làm bánh chay bỏ vào, rồi khi trai Tăng lén bỏ bánh mặn
trong tay áo, lấy bánh chay ra ăn.
Bà Hi Thị đợi tin Hòa thượng ăn rồi, tức thì
tâu với vua rằng: “Bánh ấy thiếp dùng thịt chó làm nhân, ông Chí Công ăn mà
không biết, thiệt là người phàm ngu muội, không có đạo đức trí tuệ gì cả, nay bệ
hạ còn làm bạn nữa chăng?”.
Vua nghe nói nổi giận, liền mang gươm đến chùa
mà giết Hòa thượng.
Khi ấy, ngài Chí Công cũng đã biết trước, nên
ra ngoài cửa chùa đứng đợi.
Lúc vua ngự đến trông thấy Hòa thượng thì hỏi
rằng: “Ông ra đứng đây mà làm chi?”.
Ngài Chí Công đáp rằng: “Bần tăng biết bệ hạ đến
giết bần tăng, nên bần tăng ra đây đứng đợi. Nếu Bệ hạ mà vào chùa mà giết hại,
thì ô uế chốn Già lam càng tội nghiệp lắm!”.
Vua nghe nói kinh hồn chấp tay niệm Phật và
sám hối, rồi liền mời Hòa thượng vào chùa mà hỏi rằng: “Ngài đã tiên tri được
như vậy, vì sao còn ăn lầm bánh thịt chó mà không biết?”.
Ngài Chí Công bèn đáp rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Bần
tăng có ăn đâu!”
Tâu rồi Ngài liền thỉnh vua ra sau vườn, dạy
người đào lấy bánh thịt chó lên, thấy vẫn còn đủ 120 cái. Hòa thượng bèn lấy nước
Tịnh thuỷ phun vào, tức thì mỗi mười bánh hiệp lại thành một con chó, hình thể
vận động như thường.
Vua thấy vậy thất kinh, mới biết pháp lực thần
thông của Ngài Chí Công thiệt là cao cường quảng đại, liền trở vào chùa hết
lòng lễ sám hối những sự lỗi lầm. Từ ấy Võ Ðế càng yêu mến Hòa thượng Chí Công
hơn ngày trước nữa; trái lại bà Hy Thị thấy thế lại càng giận thêm, nên khiến kẻ
hầu hạ đến chùa lấy kinh sách đem ra đốt hết.
Ðến niên hiệu Thiên Giám, bà mang bệnh nặng rồi
phải từ trần, rồi bào thai làm con rắn mãng xà ở sau hậu cung ẩn mình không cho
ai thấy, thừa khi ban đêm, bà lại mách điềm chiêm bao cho vua Võ Ðế hay rằng:
“Khi thiếp còn sống ăn ở bất nhân, tổn vật hại người, làm điều tham độc. Vì cớ ấy
nên nay thiếp phải làm thân mãng xà, thân đã dài, vóc lại lớn, bò lết không nổi,
đói không có chi ăn, khát chẳng có chi uống, cực khổ nhiều bề, còn mỗi trong
chân vảy lại có thứ độc trùng đeo vào cắn rứt da thịt, đau thắt ruột gan thật
là khó chịu! Thiếp nghĩ vì thiếp cùng Bệ hạ vẫn là tơ duyên chỉ nợ, tình vợ
nghĩa chồng, mà nay thiếp bị đọa ra thân súc sanh thế này, Bệ hạ nỡ nào hưởng
thọ phú quý một mình mà không tìm phương chi cứu thiếp, nên xin Bệ hạ từ bi thỉnh
thầy làm chay độ giải cho thiếp, may nhờ Phật pháp hộ trì, thoát ra khỏi vòng
ác báo, thì thiếp cảm ơn đời đời”.
Vua Võ Ðế nghe rồi, bèn thức dậy rầu rĩ khóc
lóc một hồi; sáng ra liền truyền lệnh rước các thầy Sa môn nhóm tại điện mà hỏi
rằng: “Vậy trong hàng chư tăng, ai có phép chi cứu giải Hoàng hậu khỏi điều tội
khổ chăng?”.
Hòa thượng Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ!
Tội của Hoàng hậu rất nặng, xin Bệ hạ hãy thiết lập đàn tràng lễ bái sám hối,
thì mới cứu được”.
Vua Võ Ðế bằng lòng, liền cầu Hòa thượng Chí
Công soạn ra mười quyển sám văn, rồi thiết đàn trong cung là chay ba tháng, cầu
sám cho Hoàng hậu. Có một hôm kia, khi trai đàn gần mãn có mùi hương nồng nã
bay khắp trong cung điện. Vua Võ Ðế ngước mắt ngó lên trời, thấy có một nàng
con gái, nhan sắc tuyệt trần, đứng giữa hư không mà chấp tay tâu cùng vua rằng:
“Thiếp nhờ công đức của Bệ hạ cầu sám hối đã thoát được thân mãn xà mà sanh về
cõi trời Ðao Lợi. Nên thiếp phải hiện thân ra cho Bệ hạ thấy để làm chứng nghiệm
vậy – Thôi, mấy lời cảm tạ, kính chúc Bệ hạ ở lại bình an”. Bà nói rồi liền ẩn
mình không thấy nữa.
Khi ấy vua Võ Ðế nửa mừng nửa khóc, khôn xiếc
sự tình bèn lui vào cung mời Hòa thượng Chí Công mà hỏi rằng: “Hoàng hậu của Trẫm
buổi còn sống, hết sức thù ghét Hòa thượng là túc duyên làm sao mà gây ra cừu oán
như vậy?”.
Ngài Chí Công tâu rằng: “Muôn tâu Bệ hạ! Sự cừu
oán duyên do kiếp trước có một vị Trú trì và một vị Giám tự ở chung một chùa.
Trong chùa ấy có cái đôn để nước, dưới chân cái đôn có con thiện trùng thường
thường kêu trong khi ban đêm; tiếng kêu của nó inh ỏi như thể tiếng con dế hay
con vạt sành vậy. Thường khi ông Trú trì tới đó lấy nước súc miệng, rửa mặt thì
cũng chú nguyện cho con ấy mau mau thoát đặng cái thân súc vật, mà sanh về đường
nhân luân.
Một bữa kia ông Trú trì đi khỏi, ông Giám tự
ghét con thiện trùng đêm nào cũng kêu, và làm cho lòng ông không được thanh tịnh
và chẳng cho ông ngủ thẳng giấc, nên ông bèn bắt con ấy, lấy dao cắt ngang giữa
lưng làm hai, rồi cũng bỏ lại dưới chân đôn như cũ.
Qua bữa sau ông Trú trì về, trót đêm không
nghe tiếng con thiện trùng kêu nữa, bèn kiếm dưới chân đôn, thì thấy nó đã chết
rồi. – Ông thương khóc, niệm Phật chú nguyện cho nó và lấy một miếng vải đỏ buộc
vào chỗ lưng bị cắt, rồi đem chôn sau vườn chùa.
Muôn tâu Bệ hạ! Con thiện trùng ấy tức là kiếp
này làm thân Hoàng hậu; còn vị Giám tự là kiếp này làm thân của Bần Tăng đây. –
Vì vậy oan gia gặp nhau toan đòi nợ trước, nếu tôi kiếp này tu hành lơ láo, thì
có thể nào thoát ra khỏi tay của Hoàng hậu!”.
Vua Võ Ðế nghe nói liều gật đầu mà đáp rằng:
“Hèn gì Hoàng hậu của Trẫm thường thường buộc sợi dây đỏ ngang lưng, không khi
nào rời bỏ, mà Trẫm không biết cớ làm sao. – Có một đêm Hoàng hậu ngũ mê, Trẫm
lén mở sợi dây ấy ra, thì Hoàng hậu nói rằng đau lưng, rồi lấy dây ấy buộc lại
vào, tức thì không đau nữa. Nay Hòa thượng bày tỏ sự túc trái như vậy, thì biết
Phật nói “NHÂN QUẢ” thiệt là không sai”.
Từ ấy, vua Võ Ðế lại càng tin tưởng Phật pháp,
trọng đãi Chúng Tăng và nguyện một lòng phụng sự Tam Bảo…